Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Cách đây 65 năm, tại Điện Biên Phủ - một
cánh đồng lòng chảo trên miền rừng núi Tây Bắc Việt Nam, đã diễn ra trận quyết
chiến chiến lược giữa quân và dân ta với đội quân xâm lược Pháp. Trải qua 56
ngày đêm chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, quân và dân ta đã giành thắng lợi
vang dội, giáng đòn quyết định, đánh bại nỗ lực chiến tranh cuối cùng của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954 đã trở thành một trong những chiến công chói lọi bằng
vàng như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX trong lịch sử dân tộc;
là kết quả sự hội tụ của nhiều nhân tố, trong đó có bản lĩnh và trí tuệ Việt
Nam. Điều đó được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Một
là, nắm chắc tình hình, kịp thời đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn; lựa chọn
mục tiêu tác chiến phù hợp, có ý nghĩa quyết định giành thắng lợi
Chiến dịch Điện Biên Phủ - đỉnh cao của Chiến cuộc Đông Xuân
1953-1954 giành thắng lợi quyết định đã làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Trong thắng lợi đó, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam được thể hiện rõ qua những quyết
định về chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Trung ương Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch.
Giữa năm 1953, để cứu vãn tình thế ngày càng nguy khốn trên
chiến trường Đông Dương, với sự giúp sức của Mỹ, thực dân Pháp đề ra và thực
hiện Kế hoạch Nava nhằm xoay chuyển tình thế, giành thắng lợi quyết định về
quân sự trong vòng 18 tháng làm cơ sở thực hiện “một giải pháp chính trị thích
hợp để giải quyết chiến tranh”. Trước âm mưu và hành động mới của địch, cuối
tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
bàn nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954, xác định phương hướng chiến lược và
chủ trương tác chiến là: sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công
vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những
hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến
tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch. Hướng Tây Bắc được chọn là
hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Tuy nhiên, tùy tình hình cụ thể có thể
thay đổi cho phù hợp. Phương châm tác chiến được Bộ Chính trị xác định là:
"Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt".
Tướng De Castries (đi đầu) cùng toàn bộ Bộ tham
mưu Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng.
Trên cơ sở phương hướng chiến lược và chủ
trương tác chiến đã được xác định, ta đã từng bước khắc chế, buộc địch phải
thay đổi Kế hoạch Nava. Ý đồ của địch là tập trung lực lượng lớn ở đồng bằng
Bắc Bộ để đối phó với bộ đội chủ lực ta, nhằm đè bẹp chiến tranh du kích và uy
hiếp vùng tự do. Tuy nhiên, ta không đưa lực lượng đối đầu với địch ở đồng bằng
mà chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược lên Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào -
Đông Bắc Campuchia, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào, buộc địch phải bị động đối phó.
Khối cơ động chiến lược của Pháp bị chia nhỏ, phân tán trên nhiều chiến trường.
Như vậy, ta đã điều được lực lượng địch, thu hút chúng đến những chiến trường
có lợi cho ta, bảo vệ được vùng tự do và tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.
Mặt khác, ta đã tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa tác chiến tập trung của
các binh đoàn chủ lực với chiến tranh du kích rộng khắp, giữa mặt trận chính
diện với mặt trận sau lưng địch và với chiến trường hai nước Lào và Campuchia.
Thực hiện Kế hoạch Nava, thực dân Pháp muốn chủ trương chuẩn
bị một trận “tổng giao chiến” mang tính quyết định trên một chiến trường do
chúng lựa chọn. Tuy nhiên, bằng cuộc tiến công lên Tây Bắc, ta đã buộc địch
phải điều chỉnh kế hoạch, vội vã ném những đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng
xuống Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Đây là vị
trí cô lập, xa căn cứ hậu phương của địch, mọi sự tiếp tế đều dựa vào đường
hàng không, nếu bị triệt phá thì khó duy trì khả năng chiến đấu. Mặt khác, thời
tiết và địa hình rừng núi ở Điện Biên Phủ hạn chế việc phát huy ưu thế về không
quân, pháo binh. Trong khi đó, lực lượng ta gồm những đơn vị chủ lực có ưu thế
tuyệt đối về chính trị - tinh thần và đã có sự chuẩn bị về nhiều mặt, bên cạnh
đó là hậu phương rộng lớn với khí thế cách mạng sôi nổi, sẵn sàng chi viện tiền
tuyến đánh giặc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
quan sát trận địa lần cuối cùng trước khi phát lệnh nổ súng mở màn chiến dịch
Điện Biên Phủ.
Trước hình hình đó, trên cơ sở phân tích,
đánh giá khách quan về nhiều mặt thuận lợi, khó khăn, thế và lực của cả ta và
địch, Bộ Chính trị quyết định tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ. Đây là một quyết tâm đầy bản lĩnh vì ta chấp nhận giao chiến ở nơi kẻ thù
có lực lượng mạnh nhất, và thắng lợi ở trận chiến này sẽ có ý nghĩa quyết định đến
cục diện chiến tranh.
Như vậy, ta đã chủ động tạo ra thời cơ và chủ động nắm lấy
thời cơ, buộc địch phải bị động giao chiến trên một chiến trường do ta lựa
chọn. Thắng lợi vang dội Điện Biên Phủ đã chứng minh chủ trương chiến lược và
sự lựa chọn mục tiêu tác chiến của ta là đúng đắn, phù hợp, thể hiện bản lĩnh
và trí tuệ Việt Nam.
Hai
là, kịp thời thay đổi phương châm tác chiến - yếu tố có ý nghĩa trực tiếp quyết
định thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngày 26/11/1953, Bộ phận tiền phương của Bộ Tổng Tư lệnh do
Thiếu tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái dẫn đầu lên đường đi Tây
Bắc. Cùng đi với đoàn có Cố vấn tham mưu Mai Gia Sinh trong đoàn cố vấn Trung
Quốc và cán bộ phiên dịch. Sau thời gian nắm bắt tình hình, cân nhắc hai phương
án: bao vây đánh dần từng bước hay tiến công tiêu diệt nhanh, Đoàn đưa ra chủ
trương "nên dùng cách đánh nhanh để tiêu diệt địch", tranh thủ thời
cơ địch chưa kịp xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm, đánh sớm và đánh nhanh để
giành thắng lợi.
Ngày 5/1/1954, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ
huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch, cùng Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc
Vi Quốc Thanh lên đường ra mặt trận. Ngày 14/1, tại Hội nghị cán bộ chiến dịch
do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì, tất cả đều tán thành chủ trương “đánh
nhanh, thắng nhanh”, tin tưởng rằng ta có thể nhanh chóng giành thắng lợi trong
vài ngày đêm. Thời gian nổ súng được xác định là ngày 20/1/1954. Dự kiến chiến
dịch diễn ra trong 2 ngày 3 đêm chiến đấu liên tục. Tuy nhiên, sau bảy ngày,
pháo vẫn chưa vào đến vị trí quy định, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết
định lùi ngày nổ súng tiến công đến 17 giờ ngày 25/1. Đến gần ngày N, thời gian
nổ súng tiến công lại được quyết định lùi đến ngày 26/1.
Trong quá trình tổ chức chuẩn bị thực hiện phương châm “đánh
nhanh, thắng nhanh”, ta có điều kiện nắm chắc hơn tình hình tập đoàn cứ điểm.
Lực lượng địch lúc này đã tăng lên 13 tiểu đoàn, trận địa phòng ngự được xây
dựng vững chắc, phía tây có thêm 2 vị trí mới, đồi Độc Lập được tăng cường thêm
lực lượng và tổ chức thành cụm cứ điểm, phân khu Hồng Cúm được tổ chức thành
cụm cứ điểm mạnh, có khả năng chi viện cho phân khu trung tâm.
Trước tình hình mới do sự tăng cường của địch ở Điện Biên
Phủ, sự bố trí lực lượng, trận địa của địch đã thay đổi, ngày 26/1/1954, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định “không thể đánh theo kế hoạch đã định… Nếu đánh
là thất bại”. Tại cuộc họp Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng quyết định chuyển phương
châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Theo đó, hoãn cuộc tiến công theo kế hoạch, bộ đội toàn tuyến được lệnh rút về
vị trí tập kết, kéo pháo ra; mọi công tác chuẩn bị thực hiện theo phương châm
“đánh chắc, tiến chắc”. Sau khi được báo cáo, Bộ Chính trị đã nhất trí cho đây
là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.
Sau khi thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải
quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, công tác chuẩn bị cho một chiến dịch
dài ngày phải tổ chức lại với vô vàn khó khăn, thử thách. Nhưng đó là công việc
cần thiết để bảo đảm cho thắng lợi của một trận quyết chiến chiến lược. Sau 56
ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm và mưu trí với biết bao hi sinh, mất mát, Chiến
dịch Điện Biên Phủ đã giành toàn thắng vào chiều ngày 7/5/1954. Chiến thắng đó
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự chỉ đạo chiến
dịch với quyết định thay đổi phương châm tác chiến vô cùng bản lĩnh và sắc sảo
của Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng chiến dịch - Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp. Có thể khẳng định, sự thay đổi đó là một nhân tố quyết định dẫn
tới thắng lợi Điện Biên Phủ.
Ba
là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao tinh thần quyết chiến,
quyết thắng
Trước chiến dịch Điện Biên
Phủ, quân và dân ta đã mở nhiều chiến dịch lớn, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc đã được động viên và phát huy. Đến Chiến dịch Điện Biên Phủ, sức mạnh đó đã
được phát huy ở mức cao nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Phối hợp với Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương
Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, quân và dân ta ở khắp các địa phương
trên cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu 3, Tả Ngạn, đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu
5, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt
nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân, buộc thực dân
Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Bên cạnh đó, các lực lượng
thanh niên, phụ nữ khắp mọi miền đất nước đều tích cực tham gia các hoạt động
đấu tranh chính trị, phá tề trừ gian, binh, địch vận… phối hợp với Điện Biên
Phủ.