Văn bản mới
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2015)
02/04/2015 09:02:47

Ngày 30/4/1975, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và mốc son chói lọi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.  

Đề cương gồm ba phần:

Phần thứ nhất: Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Phần thứ hai: Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Phần thứ ba: Phát huy tinh thần chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phần thứ nhất

NHỮNG CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 

1. Bối cảnh thế giới và trong nước

- Bối cảnh thế giới:

+ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ nổi lên cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh, hiếu chiến và có âm mưu bá chủ thế giới. Để thực hiện ý đồ chiến lược đó, Mỹ từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương và nhảy vào miền Nam Việt Nam sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, hòng áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta.

+ Thế giới lúc này đã phân chia thành hai hệ thống XHCN và TBCN đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Việt Nam trở thành tiêu điểm hội tụ những mâu thuẫn của thời đại.

- Bối cảnh trong nước:

 + Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Thực dân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, hai năm sau sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng, đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã tận dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Từ đây, nước ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới, nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc.

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã trải qua gần 21 năm (từ tháng 7/1954 đến 30/4/1975), là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt nhất và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể phân kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thành năm giai đoạn chiến lược, mỗi giai đoạn có những chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn cuối tạo bước nhảy vọt, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.

2.1. Giai đoạn thứ nhất: từ tháng 7/1954 đến tháng 12/1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại  chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ

Thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, lực lượng vũ trang ta rút ra miền Bắc tập kết. Trong khi đó quân ngụy tay sai rút vào miền Nam. Từ năm 1955, đế quốc Mỹ xây dựng cho chính quyền Ngô Đình Diệm một đội quân có 10 sư đoàn bộ binh, các tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp chủ lực cùng 54.000 quân địa phương dưới sự điều khiển trực tiếp của Mỹ thông qua gần 700 cố vấn quân sự Mỹ.

Mỹ - Diệm đã phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, thực hiện chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” đánh phá điên cuồng, giết hại cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước; chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Chỉ trong 4 năm (1955-1958) nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giết, tù đày, nhiều địa phương cấp huyện không còn cơ sở Đảng.

Trước hành động điên cuồng của Mỹ - Diệm, thời gian đầu ta chưa có biện pháp chống cuộc “chiến tranh đơn phương” của địch, dần dần đảng viên và quần chúng cách mạng tự thấy phải vũ trang chống lại kẻ thù, nếu không, cách mạng sẽ bị tiêu diệt. Từ năm 1957, hoạt động vũ trang của ta đã tăng lên, phối hợp với đấu tranh chính trị. Sang năm 1958 phong trào phát triển hơn.  

Tháng 01/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định rõ con đường, mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam; mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền Nam – Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam.

Ngay sau Hội nghị Trung ương 15, Trung ương Đảng, Chính phủ đã cho thành lập Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559), bắt đầu chi viện sức người, sức của cho miền Nam.

 Cuối năm 1959, đầu năm 1960, phong trào “Đồng Khởi” nổi dậy khởi nghĩa diệt bọn tề điệp ác ôn, giải tán chính quyền cơ sở, diệt đồn, phá ách kìm kẹp của địch nổ ra rộng khắp các tỉnh Nam Bộ và vùng rừng núi Trung Trung Bộ, nhân dân đã giành được quyền làm chủ. Đặc biệt như trận Tua Hai (Tây bắc Thị xã Tây Ninh 7km) rạng sáng ngày 21/01/1960, lực lượng vũ trang của ta diệt 500 tên, bắt 500 tên khác, thu hàng ngàn súng. Đây là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Nam. 

2.2. Giai đoạn thứ hai: từ tháng 01/1961 đến tháng 6/1965, khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại “cuộc chiến tranh một phía” của Ai-xen-hao, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên.

Từ cuối năm 1960, Ken-nơ-đi công bố học thuyết chiến tranh mới: chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm.

Nội dung chủ yếu của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là: củng cố ngụy quyền, tăng cường khả năng chiến đấu của ngụy quân bằng chỉ huy, trang bị vũ khí, yểm trợ kỹ thuật của Mỹ, tăng cường phá hoại miền Bắc, chống miền Bắc thâm nhập, bình định dồn dân vào “ấp chiến lược” để thực hiện “tát nước bắt cá”, cô lập đi đến tiêu diệt cách mạng miền Nam.

Trên đà thắng lợi, cách mạng miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để phá “chương trình bình định” của Mỹ - Diệm. Ngày 16/02/1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời đã cổ vũ động viên nhân dân miền Nam bước vào giai đoạn cách mạng mới.

Trong năm 1962, quân dân miền Nam đã đánh bại hàng loạt cuộc càn quét lùa dân vào “ấp chiến lược”, “Chương trình bình định” 18 tháng của Mỹ - Diệm thất bại.

Tháng 01/1963, trận Ấp Bắc (Cai Lậy - Mỹ Tho), địch dùng 2.000 quân, có máy bay, tàu chiến, pháo binh phối hợp, do 51 cố vấn Mỹ chỉ huy. Lực lượng ta chỉ có 01 tiểu đoàn tăng cường, bằng 1/10 lực lượng địch nhưng ta đã diệt 450 tên, đánh bại quân địch. Chiến thắng Ấp Bắc có ý nghĩa báo hiệu sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Chiến lược Bình Giã (Bà Rịa - Long Khánh), từ tháng 12/1964 đến tháng 01/1965 là chiến dịch đầu tiên phối hợp chủ lực Miền, chủ lực quân khu và lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên địch… Những thắng lợi đó đã chứng tỏ sự lớn mạnh, trưởng thành của lực lượng vũ trang miền Nam, đủ sức đánh bại hoàn toàn quân ngụy dù có sự chỉ huy, hỗ trợ của quân Mỹ. Đến giữa năm 1965 chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ngụy bị sụp đổ.

2.3. Giai đoạn ba: từ tháng 7/1965 đến tháng 12/1968, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.

Thí điểm cuộc “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, đế quốc Mỹ đã bị động, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới nhưng sử dụng mức độ hạn chế quân Mỹ cùng với quân chư hầu trong khu vực và quân ngụy, trong đó quân Mỹ giữ vai trò tác chiến chủ yếu trên chiến trường.

Mục tiêu “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam là nhanh chóng tạo ra ưu thế binh lực, hỏa lực “tìm diệt” chủ lực ta, giành lại thế chủ động trên chiến trường, mở rộng và củng cố vùng kiểm soát, giành lại dân, đồng thời phá hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam làm lung lay ý chí giải phóng miền Nam của Đảng và nhân dân ta.

Từ giữa năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam. Lúc cao nhất cuối năm 1968, quân Mỹ lên đến 536.000; quân các nước chư hầu trên 7 vạn và quân ngụy gần 1 triệu.

Trận Núi Thành của quân dân ta là trận mở đầu đánh Mỹ, trận Vạn Tường tháng 8/1965 ta đẩy lùi cuộc hành quân của Mỹ, diệt 900 tên đã chứng tỏ ta có khả năng diệt quân Mỹ. Sau đó phong trào “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” dâng cao khắp miền Nam. Trên toàn miền Nam thời kỳ đó ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 15 vạn tên địch, trong đó có 68.200 tên Mỹ, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị thất bại một bước quan trọng. 

Đêm 30, rạng ngày 31/01/1968, quân dân ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam gây cho địch thiệt hại lớn và khủng hoảng tinh thần. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã bồi thêm một đòn chí mạng vào quân Mỹ - Ngụy.

Ngày 04/8/1964, Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ loan báo tàu chiến Mỹ bị Hải quân Việt Nam tấn công ở hải phận quốc tế ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, lấy cớ để ngày 05/8/1964 gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc nước ta. Quân dân miền Bắc quyết tâm vừa đánh thắng Mỹ vừa bảo đảm sản xuất, đời sống, vừa tích cực chi viện cho miền Nam. Đến cuối năm 1968, quân dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ; bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ - Ngụy.

Trước thất bại trên chiến trường, trước làn sóng quốc tế và ngay trong nước Mỹ phản đối sự xâm lược của Mỹ đối với Việt Nam, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và phải ngồi vào bàn thương lượng ở Hội nghị Pa-ri, rút quân Mỹ về nước. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản.

2.4. Giai đoạn thứ tư: từ tháng 1/1969 đến tháng 1/1973, đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ ở miền Bắc. 

Thất bại thảm hại trong “Chiến tranh cục bộ”, nhưng đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược miền Nam. Nich-xơn triển khai thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, ra sức phát triển và hiện đại hóa quân Ngụy Sài Gòn để thay thế quân Mỹ rút dần về nước, đẩy mạnh chiến tranh bình định và mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.

Đầu năm 1971 quân Mỹ - Ngụy mở cuộc tiến công xâm lược Campuchia, đánh sang Đường 9 - Nam Lào nhằm cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của Việt Nam. Quân đội Việt Nam đã phối hợp cùng quân đội cách mạng Campuchia và Lào mở cuộc phản công lớn đánh bại hoàn toàn quân địch.

Đầu năm 1972 ta lại mở đồng thời 3 chiến dịch đánh vào 3 hướng chiến lược: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đánh phá bình định ở đồng bằng làm cho quân Ngụy khốn đốn. Mỹ phải cho hải quân, không quân trở lại tham chiến ở miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc.

Cuộc tập kích bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12/1972 đã trở thành trận “Điện Biên Phủ trên không” đối với đế quốc Mỹ.

Thất bại ở cả 2 miền Nam, Bắc, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam (ngày 27/01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ” bị thất bại.

2.5. Giai đoạn thứ năm: từ cuối năm 1973 đến 30/4/1975, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Tuy rút hết quân đội nhưng Mỹ vẫn để lại 2 vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, để lại vũ khí, trang bị chiến tranh và tiếp tục viện trợ quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Quân Ngụy lúc này lên đến 1.100.000 tên và ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri. Quân dân miền Nam kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, cả nước khẩn trương tạo thế, tạo lực để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.

* Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến 24/3/1975).

Từ cuối năm 1974, quân ta đã bí mật dàn thế trận cho chiến dịch Tây Nguyên, lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt mở màn.

Ngày 04/3/1975 quân ta tấn công cắt đường 19, 21 nối Tây Nguyên với đồng bằng khu 5.

Ngày 09/3/1975, ta đánh chiếm Đức Lập - Núi Lửa, cô lập hoàn toàn Buôn Ma Thuột.

Ngày 10/3/1975, bốn cánh quân ta tiến công Buôn Ma Thuột.

 Sau hai ngày chiến đấu quân ta tiêu diệt hoàn toàn quân địch, làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Địch điều quân phản kích bị quân ta diệt gọn. Nắm bắt ý đồ của địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, ta bố trí đánh chặn và truy kích tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng này. Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng.

* Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29/3/1975)

 Vừa đánh địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, ngày 21/3/1975 quân ta thọc sâu bao vây Huế.

Ngày 26/3/1975, quân ta tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch ở Huế, thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên được giải phóng. Quân ta tiếp tục tấn công Đà Nẵng, phối hợp với quần chúng nổi dậy.

Ngày 29/3/1975 Đà Nẵng được giải phóng.

* Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26/4 đến 30/4/1975)

Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 15/4/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn - Gia Định và toàn miền Nam. 

Lực lượng ta tham gia chiến dịch có: 4 quân đoàn (1, 2, 3 và 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) cùng các đội đặc công biệt động, các quân chủng, binh chủng, bộ đội Khu 7, Khu 8, lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân trên địa bàn chiến dịch.

Lực lượng địch: Quân đoàn 3 (gồm 4 sư đoàn bộ binh 22, 25, 5 và 18), sư đoàn thủy quân lục chiến, 2 lữ đoàn dù, 1 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp, 3 liên đoàn biệt động quân, 19 tiểu đoàn pháo binh, 800 máy bay, 862 tàu hải quân…; tổ chức phòng thủ thành 3 tuyến: Vòng ngoài (cách trung tâm Sài Gòn 30 - 50km), ven đô và nội đô.

Từ ngày 26/4/1975, ta đã hình thành thế bao vây Sài Gòn từ 5 hướng: Hướng

 Tây Bắc - Quân đoàn 3; hướng Bắc - Quân đoàn 1; hướng Đông Nam - Quân đoàn 2; hướng Đông - Quân đoàn 4; hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Khu 8).  

 Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, lúc 17 giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu.

Từ ngày 26 đến ngày 28/4/1975 ta đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài, đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng: Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, thị xã Bà Rịa…; cắt đứt hoàn toàn đường 4 từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây; chế áp, làm tê liệt các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất. 

Chiều ngày 28/4/1975, tổng thống ngụy Trần Văn Hương từ chức, Dương Văn Minh lên thay. Cùng ngày, một biên đội máy bay A37 (phi đội Quyết thắng) của Quân chủng Không quân đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, làm quân địch càng thêm hoảng loạn, việc di tản bằng máy bay của chúng bị ngừng trệ.

Ngày 29/4/1975, quân ta tiến công tiêu diệt các tập đoàn chủ yếu của địch ở vòng ngoài và vùng ven, đánh chiếm các căn cứ Nước Trong, Long Bình, Thành Tuy Hạ, Đồng Dù, thị xã Hậu Nghĩa… Các binh đoàn thọc sâu tiến vào cách trung tâm Thành phố Sài Gòn từ 10 đến 20 km. Đại sứ Mỹ và các nhân viên quân sự, binh lính cuối cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn.

Sáng sớm ngày 30/4/1975, quân ta mở đợt tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát... Vào lúc 10 giờ 45 phút, phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của Chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Cùng với đòn tiến công quân sự, nhân dân nội thành, ngoại thành Sài Gòn nổi dậy giành chính quyền ở 107 điểm. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng. Ở Nam Bộ nhân dân nhất tề nổi dậy cùng lực lượng vũ trang địa phương giải phóng các tỉnh còn lại và các đảo ngoài khơi.

Phần thứ hai

Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

1. Ý nghĩa thắng lợi

1.1. Đối với Việt Nam

- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản của cách mạng Việt Nam; mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu, tạo lập một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

- Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng càng nhận thức sâu hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.

- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ XX và mai sau.

1.2. Đối với thế giới

- Là một thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Đã đập tan cuộc phản công lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 của chủ nghĩa đế quốc vào ba trào lưu cách mạng của thời đại, mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

- Làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ.

- Là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh vô địch của đế quốc Mỹ.

2. Nguyên nhân thắng lợi

2.1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam:

Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, nên đã ra sức xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Từ việc đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, hiểu rõ những thuận lợi, khó khăn cơ bản của nhân dân ta, Đảng ta đã định rõ bước đi, đánh bại kẻ thù rất mạnh và vô cùng xảo quyệt.

2.2. Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người:

Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả nước, của hàng chục triệu đồng bào yêu nước miền Nam đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn vì miền Nam, động viên con em lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, lao động quên mình, tạo ra cơ sở vật chất xây dựng hậu phương lớn chi viện toàn diện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam và trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN. Các lực lượng vũ trang nhân dân ta phát huy truyền thống quyết chiến, quyết thắng trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, mưu trí sáng tạo, dũng cảm chiến đấu, góp phần cùng toàn dân đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

2.3. Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng, nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, trong lao động, khắc phục khó khăn, thống nhất về chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Sự đoàn kết thống nhất, gắn bó giữa quân với dân. Nhân dân sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Bộ đội chiến đấu quên mình vì dân tạo nên sự gắn bó máu thịt giữa quân với dân. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

2.4. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ:

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược; trong đó, các nước XHCN và phong trào cộng sản quốc tế là nòng cốt.

2.5. Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia:

Phát huy truyền thống anh em gắn bó với nhau từ xa xưa, Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia. Sự đoàn kết liên minh trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc. Sự hiệp đồng chiến đấu của quân đội ta với quân đội Lào, Campuchia đã tạo ra thế chiến lược tiến công chung cho cả 3 nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn của địch trên toàn Đông Dương.

3. Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

3.1. Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược

Quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược là quyết tâm lớn của Đảng, của toàn quân, toàn dân, của cả nước Việt nam. Đó là một quyết tâm vĩ đại, luôn luôn kiên định trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam, được hun đúc từ ngàn đời nay. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc ta triệu người như một, sẵn sàng đứng lên chống giặc, cứu nước.     

3.2. Đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ:

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên XHCN.

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước được thực hiện bằng hai lực lượng cơ bản, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; bằng hai hình thức: Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, biết đánh thắng từng bước, đẩy lùi địch từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

3.3. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo:

Nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được phát triển lên một trình độ cao, sáng tạo, nội dung và hình thức đấu tranh cực kỳ phong phú. Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trong đó đòn tiến công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Đó là nghệ thuật xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân trên ba vùng chiến lược (nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị). Đó là nghệ thuật tiến công kiên quyết, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận: đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao với hình thức phong phú đa dạng. Kết hợp chiến đấu với sản xuất và ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh. Nghệ thuật chiến tranh của ta đã mở đầu đúng, biết đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước, đến thắng lợi hoàn toàn.  

3.4. Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc:

Một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đường lối và nghệ thuật tổ chức, xây dựng lực lượng, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị, đủ sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, xứng đáng là đội ngũ tiêu biểu cho trí tuệ cách mạng và khoa học của dân tộc và thời đại, thực sự là lực lượng tiên phong dẫn dắt toàn dân trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. Đồng thời, xây dựng lực lượng cả nước đánh giặc lớn nhất trong lịch sử dân tộc ta. Chính lực lượng cả nước đánh giặc là cơ sở vững chắc của thế chiến lược tiến công ngày càng vững mạnh, sắc bén của chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh thắng lực lượng và bộ máy chiến tranh đồ sộ và hiện đại của đế quốc Mỹ.

3.5. Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ:

 Đảng ta chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay tại chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược thông suốt, chi viện từ  hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam cũng như đường vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuyến vận tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý chí và nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

3.6. Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược

Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, quốc phòng và cùng kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Một mặt ta phải kiên trì, nhất quán quan điểm, nguyên tắc, đoàn kết với nhân dân hai nước, nhưng mặt khác phải biết lựa chọn những hình thức. Đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

3.7. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại gắn với sức mạnh dân tộc:

Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược. Dưới tác động của hoạt động đối ngoại và của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã hình thành và phát triển. Đó là hệ thống các nước XHCN, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân, phong trào cách mạng, lực lượng hoà bình, dân chủ, tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả đông đảo nhân dân Mỹ yêu chuộng hoà bình và công lý.

3.8. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng, là thắng lợi của nhân tố con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Bản sắc, văn hoá con người Việt Nam được tạo thành từ tố chất mới hoà quyện dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ đại của một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam lên ngang tầm của thời đại mới. Đảng ta đặt trọng tâm trước hết vào việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần cho con người; xác định lập trường kiên quyết kháng chiến, quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Từ đó, động viên được ý chí chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên chiến thắng - Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

- Nhân dân và các lực lượng vũ trang đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người.

- Cả nước có sự đoàn kết thống nhất cao: thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết Bắc - Nam, đoàn kết quân dân trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược.

- Tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại.

- Đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau, tạo nên sức mạnh để đánh thắng kẻ thù.

Phần thứ ba

III. PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Những thành tựu cơ bản của đất nước ta sau 40 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

1.1. Thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến 1985)

Hội nghị lần thứ 24, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khoá III (9/1975) đã đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, miền Nam đồng thời tiến hành cải tạo XHCN và xây dựng CNXH.

Ngày 25/4/1976, cả nước tiến hành Tổng tuyển cử Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam thống nhất. Đây là ngày hội lớn của toàn dân ta từ Bắc đến Nam. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VI (từ 24/6 đến 3/7/1976), Quốc hội quyết định đổi tên nước ta là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định quốc kỳ, quốc huy, quốc ca; quyết định Hà Nội là Thủ đô của nước ta và đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh.

 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại Hà Nội (12/1976) đề ra đường lối chung của cách mạng và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta. Nhân dân cả nước sôi nổi bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980), tập trung phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng, phát triển giao thông vận tải, đẩy mạnh xây dựng cơ bản và công tác nghiên cứu khoa học, phát huy vai trò then chốt của cách mạng khoa học kỹ thuật; xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng- văn hoá. Lao động xã hội bước đầu được phân bố lại. Nhờ những cố gắng liên tục trên mặt trận sản xuất lương thực, thực phẩm, những vùng bị thiên tai nặng nề đã vượt qua được nạn đói. Mức sống của nhân dân tuy còn thấp, song đời sống nhiều vùng nông thôn đã có những mặt được cải thiện. Những thành tựu quân và dân ta đạt được trong những năm đầu xây dựng đất nước thống nhất đã tạo cơ sở quan trọng từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, góp phần tăng thêm sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêngxari. Với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, ngày 7/1/1979 nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêngxari. Sau đó, quân đội ta đã cùng toàn dân làm tròn nhiệm vụ bảo vệ biên giới ở phía Bắc Tổ quốc.

 Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) xác định mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát của những năm 80 là: Dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

+ Thành tựu nổi bật nhất của Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981- 1985) là sản xuất nông nghiệp. Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100- CT/TW và Nghị quyết 10 về công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, nhờ vậy, đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Sản lượng lương thực tăng từ 14,3 triệu tấn quy thóc năm 1980 lên 15 triệu tấn năm 1981 lên 18,2 triệu tấn năm 1985.

+ Hơn 50 công trình lớn trên các lĩnh vực và hàng ngàn công trình phúc lợi công cộng khác được xây dựng và đưa vào sử dụng như: nhà máy xi măng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch, nhà máy giấy Bãi Bằng...Đầu tư khởi công một số công trình then chốt như thuỷ điện Hoà Bình, thuỷ điện Trị An, cầu Thăng Long; thăm dò dầu khí ở miền Bắc và thềm lục địa phía Nam...

1.2 Thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (từ 1986 đến 2015) 

Nhìn tổng thể, sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, biểu hiện cơ bản trên một số vấn đề sau:

- Về kinh tế: gần 30 năm đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho đến nay, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường. Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.

+ Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, quy mô ngày càng lớn mạnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tính chung cho cả thời kỳ từ năm 1986 tới nay tăng bình quân gần 7%/năm. Năm 2013, GDP Việt Nam đạt gần 176 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người năm 1988 chỉ đạt 86 USD/năm, đến năm 2013 đạt 1.960 USD, đứng hàng 132/181 quốc gia trên thế giới, nhiều khả năng sẽ đạt 2.000 USD vào năm 2015, Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình thấp.

+ Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2014 còn 18,12%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2014 lên 38,50%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 43,38% năm 2014.

+ Xuất, nhập khẩu không ngừng tăng lên. Năm 1986 kim ngạch xuất khẩu đạt 789,1 triệu USD, năm 2013 tăng lên 132,2 tỷ USD (gấp 167 lần). Hàng hóa của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 220 nước và vùng lãnh thổ, được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu đã chuyển sang quốc gia có xuất siêu; năm 2014, Việt Nam xuất siêu khoảng 2 tỷ USD.

 - Về văn hóa - xã hội: gần 30 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm, đầu tư mọi nguồn lực cho sự phát triển các mặt thuộc lĩnh vực văn hoá - xã hội; có nhiều chuyển biến trong cải thiện đời sống tinh thần nhân dân. Trong đó, thành công nổi bật, đầy ấn tượng là chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân.   

+ Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2010, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,6 triệu người và năm 2014 là 2,1 triệu người; Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 49% năm 2014.

+ Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả tốt. Theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng 8,2% năm 2014, Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015, mà Liên hợp quốc đã đề ra. Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.

+ Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%.  

+ Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,3 tuổi năm 2014. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua, xếp thứ 116/182 quốc gia trên thế giới. Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng.

- Về công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế: gần 30 năm qua, chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 160 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới.

+ Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng được củng cố và mở rộng. Quan hệ với Campuchia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế.

+ Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu, đồng thời, đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh.

+ Nước ta đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Hoa Kỳ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu… nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Các nước này hiện đã trở thành những đối tác và thị trường hàng đầu của ta.

+ Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), là Uỷ viên không Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009…  

- Về quốc phòng, an ninh: trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới.

+ Chúng ta đã kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo đảm được chủ quyền quốc gia, biển đảo và giữ vững được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ động đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội phạm.

 + Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh cho các tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân đồng thuận, tin tưởng, đoàn kết và không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, nhận thức về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn.

 + Sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân

được tăng cường; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại và ngược lại.

Tuy nhiên, sau gần 30 năm đổi mới, đất nước cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

2. Phát huy tinh thần chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. 

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta được tiến hành trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn vẫn tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp. Sau 40 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nhất là sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực ngày càng được tăng cường, vị thế và uy tín trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có sự phát triển mới, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao.

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, mà cốt lõi là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị để phát triển toàn diện đất nước là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách được giao, Quân đội nhân dân phải nỗ lực hơn nữa, trước hết phải tiếp tục quán triệt, nắm vững mục tiêu, quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, phải tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, trong đó tập trung xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định, quân đội ta là một quân đội cách mạng, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trước tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết, càng phải coi trọng việc giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng cho Quân đội nhân dân; phải thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của quân đội, truyền thống lịch sử dân tộc; nâng cao đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cho cán bộ, chiến sĩ. Đó là cơ sở quan trọng hàng đầu bảo đảm cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Bản chất cách mạng của quân đội ta là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; quán triệt sâu sắc cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng; chấp hành nghiêm túc nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ được giao, hoàn thành tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Bản chất của quân đội ta còn được thể hiện ở chỗ gắn bó máu thịt với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, Quân đội nhân dân cần nhận thức đúng, phân biệt rõ đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh, thời cơ và thách thức đan xen. Trên cơ sở đó, đề cao cảnh giác, dự báo đúng tình hình, nắm chắc mọi diễn biến liên quan đến quốc phòng - an ninh, nhất là trên hướng, địa bàn chiến lược, để có kế hoạch và chủ động phối hợp với các lực lượng và toàn dân tiến hành đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, hành động chống phá cách mạng, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc. Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các đơn vị Quân đội phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trên các địa bàn chiến lược; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc. Đồng thời, các đơn vị quân đội phải chủ động tham mưu kịp thời về các đối sách xử lý thắng lợi các tình huống về quốc phòng - an ninh và đối ngoại, giữ vững quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, các nước lớn, giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển toàn diện đất nước.

Vấn đề xây dựng nền nếp chính quy cũng là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết nhằm tạo sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động để bảo đảm cho quân đội ta có tổ chức chặt chẽ, mẫu mực về lễ tiết, tác phong, nghiêm minh về kỷ luật, khoa học trong hiệp đồng tác chiến. Phải coi trọng tính toàn diện, đồng thời cần tập trung vào trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc từng mặt, làm cơ sở để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.  

Trước sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ trong thời kỳ mới, việc xây dựng quân đội tinh nhuệ không chỉ nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu mà còn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, trong đó, quan trọng nhất là xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị, bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Tổ chức tốt phong trào thi đua quyết thắng, tập trung khắc phục khâu yếu, mặt yếu, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, chiến sĩ. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh; đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.  

Để bảo đảm cho quân đội tinh nhuệ về trình độ và khả năng tác chiến, tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, phải chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục - đào tạo. Trong huấn luyện chiến đấu, các đơn vị cần đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện. Huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị trong biên chế, làm chủ và khai thác tốt các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại mới được trang bị, có trình độ chiến thuật cao, làm cơ sở để nâng cao trình độ và khả năng tác chiến của quân đội.

Chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân từng bước hiện đại, đồng thời tận dụng và phát huy tối đa tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ, những thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đẩy mạnh đổi mới, hiện đại hóa Quân đội. Trước hết, cần tập trung hiện đại hóa các lực lượng hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, thông tin liên lạc,... đồng thời, từng bước hiện đại hóa các lực lượng khác, phù hợp với thực tiễn và tiềm lực kinh tế của đất nước. Cần tiếp tục phát huy nội lực, nghiên cứu sản xuất vũ khí, trang bị, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, các đơn vị cần thực hiện tốt Cuộc vận động “Quản lý, khai thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”; đẩy mạnh phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực sử dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có.

 

*      *     *

Kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2015) là một sự kiện chính trị quan trọng của quân đội và đất nước. Đây cũng là dịp để toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nhìn lại chặng đường đã qua, tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc và quân đội anh hùng. Chúng ta tin tưởng rằng, với niềm tự hào dân tộc, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân sẽ tiếp tục nỗ lực phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thật sự làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.             
Các tin mới hơn
THỂ LỆ CUỘC THI TRỰC TUYẾN TÌM HIỂU NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 KHÓA XII(01/03/2024)
Thể lệ cuộc thi trắc nghiệm trực tuyến tìm hiểu chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực(10/11/2023)
LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ(26/08/2023)
Quy định về tổ chức tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh vào đào tạo đại học, cao đẳng hệ quân sự tại các trường quân đội năm 2023(05/04/2023)
Hướng dẫn đăng ký sơ tuyển vào đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp quân sự và đăng ký dự kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2023(05/04/2023)
Các tin cũ hơn
Thi tìm hiểu 70 năm Ngày truyền thống LLVT Quân khu(24/03/2015)
Thông tin mới về công tác tuyển sinh quân sự năm 2015(05/03/2015)
Tổ chức thi tác phẩm báo chí(27/02/2015)
Tiêu chuẩn tuyển sinh vào các trường quân đội năm 2015(22/01/2015)
Thông tin tuyển sinh quy định môn thi THPT Quốc gia xét tuyển vào đại học, cao đẳng các trường quân đội năm 2015(22/01/2015)
na
Video
Phóng sự Ảnh
Trang tin đơn vị
Hệ thống văn bản
na
na
na
na
na
na
na
na
Liên kết website